Cư trần lạc đạo phú — Hội thứ nhất

 

Đệ nhất hội

Mình ngồi thành thị, dùng nết sơn lâm 
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính, nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý. 
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý. 
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chú tri âm.
Nguyệt bạch vầng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng. 
Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục. 
Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm.
Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng, yêu hơn châu báu. 
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi, trọng nữa hoàng câm.

Đọc nôm và chú thích

1) Bài phú “Sống đời vui đạo” Hội thứ nhất

Mình (2) ngồi thành thị, dùng nết (3) sơn lâm.
2) Mình: Thân thể, thân người (Tự điển chữ Nôm Trích Dẫn).
3) Nết: Nếp sống, phong cách, phong thái; tính hạnh, cách ăn thói ở (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị). Nhiều sách viết “Nết dùng sơn lâm”, nhưng bản khắc rõ nét là “Dùng nết sơn lâm”.

Muôn nghiệp (4) lặng (5) an nhàn thể tính (6), nửa ngày rồi (7) tự tại thân tâm.
4) Nghiệp: (Từ ngữ Phật giáo) Hành động, hành vi thể hiện qua thân thể, lời nói, tư duy có thể tạo nên quả báo thiện ác về sau, Karma (Phật Quang Đại Từ Điển)。
5) Lặng: Thanh tịnh, không bị vọng động.
6) Thể tính: (Từ ngữ Phật giáo) Bản thể và bản tính, thực thể. Thể: Thực chất của sự vật, bản thể; Tính: bản chất không biến đổi của thể. Như vậy, thể là tính, tính là thể, 2 mặt của nhau. Thể tính của Phật và chúng sinh không khác nhau. Câu Xá Luận, quyển 13: “Thể tính thị thiện, Do như lương dược”. 體性指實體,即事物之實質為體,而體之不變易稱為性,故體即性。若就理之法門而言,佛與眾生,其體性同一而無差別。俱舍論卷十三(大二九‧七一上):「體 性是善,猶如良藥。」(Phật Quang Đại Từ điển)。
7) Rồi: An nhàn, thanh thản, không bận bịu, thảnh thơi; Rãnh rỗi, rỗi rãi (Từ Điển từ Việt cổ).

Tham ái nguồn dừng (8), chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý. Thị phi tiếng lặng, được dầu (9) nghe yến thốt oanh ngâm.
8) Dừng: Ngừng, đứng lại, chấm dứt.
9) Dầu: Dầu lòng, mặc lòng (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị), mặc sức, thoả sức.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý. Biết đào hồng, hay (10) liễu lục, thiên hạ năng (11) mấy (12) chú tri âm.
10) Hay: Biết (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị).
11) Năng: 能 Tới mức, đạt tới (Mượn âm và nghĩa chữ Hán 能 Năng, Giáo Dục Bộ Dị Thể Tự Tự Điển, Bộ giáo dục Đài Loan).
12) Mấy: 某 (Mượn và đọc chệch âm Mai của chữ Hán 某, 某 là chữ cổ của 梅 Mai, Giáo Dục Bộ Dị Thể Tự Tự Điển, Bộ giáo dục Đài Loan).

Nguyệt bạch (13) vầng xanh (14), soi mọi chỗ thiền hà (15) lai láng. Liễu mềm hoa tốt, ngất (16) quần sinh (17) tuệ nhật (18) sâm (19) lâm (20).
13) Nguyệt bạch: Ánh trăng trong. Thơ Đỗ Phủ: Nguyệt bạch yên thanh thuỷ ám lưu, Cô viên hàm hận khiếu Trung thu. 月白煙青水暗流,孤猿銜恨叫中秋。
14) Vầng: Hào quang chung quanh mặt trời hay mặt trăng.
15) Thiền hà: (Từ ngữ Phật giáo) Dòng sông thiền, chỉ việc Thiền định trong việc tu Phật (Thiền định chi thuỷ, năng diệt tâm hỏa (phiền não), vì thế ví như giòng sông, nên gọi là Thiền hà) 即禪定。因禪定之水,能滅心火(煩惱),故喻之於河,而稱禪河。(Phật Quang Đại Từ Điển)。
Bài kệ của sư Phó Đại Sĩ nhà Lương thời Nam Triều: “Thiền hà tuỳ lãng tịnh, Định thuỷ trục ba thanh” 禪河隨浪淨,定水逐波清。Sư Tinh Vân giảng rằng: Tâm ta như một dòng sông, sóng gió nổi lên bất thường, không biết rõ đáy sông như thế nào. Nếu có Thiền thì tâm sẽ định, sẽ thấy rõ bản chất thật của ta. 我們的心如河水,經常隨風浪鼓動、翻騰不已,看不清河底的種種面貌。如果有了禪,讓心靜定下來,就能照見自己的本來面目。
16) Ngất: Cao ngút (Từ Điển từ Việt cổ).
17) Quần sinh: Các loại hữu tình, chúng sinh.
18) Tuệ nhật: (Từ ngữ Phật giáo) Lấy ánh sáng mặt trời để ví như trí tuệ của Phật chan hòa khắp cả chúng sinh, chiếu sáng u minh, mê muội. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ môn: “Vô cấu thanh tịnh quang, Tuệ nhật phá chư ám, Năng phục tai phong hoả, Phổ minh chiếu thế gian”. 以日光比喻佛之智慧普照眾生,能破無明生死癡闇。法華經卷七普門品(大九‧五八上):「無垢清淨光,慧日破諸闇,能伏災風火,普明照世間 (Phật Quang Đại Từ Điển)。
19) Sâm: Cây cối rậm rạp, sum sê 樹木濃密的樣子 (Mượn âm và nghĩa chữ Hán 森 Sâm, Giáo Dục Bộ Dị Thể Tự Tự Điển, Bộ giáo dục Đài Loan).
20) Lâm: Rất nhiều 眾多 (Mượn âm và nghĩa chữ Hán 林 Lâm, Giáo Dục Bộ Dị Thể Tự Tự Điển, Bộ giáo dục Đài Loan).

Lo hoán cốt (21), ước phi thăng, đan thần (22) mới phục (23). Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm (24).
21) Hoán cốt: Thay xương đổi cốt.
22) Đan thần: (Chữ Hán) Thuốc tiên.
23) Phục: Uống.
24) Thuốc thỏ còn đâm: Do 4 chữ “Ngọc thố đảo dược” 「玉兔搗藥」. Chuyện nhân gian của đạo Lão, Trung Quốc cho rằng có con thỏ trắng trên mặt trăng, quỳ bên cối mà đâm giã làm thuốc trường sinh, uống vào sống lâu thành tiên. 道教掌故之一。見於漢樂府《董逃行》。相傳月亮之中有一隻兔子,渾身潔白像玉,所以稱作「玉兔」。這種白兔玉杵,跪地搗藥,成蛤蟆丸,服用這種藥丸可以長 生成仙。

Sách dễ (25) xem chơi, yêu (26) tính sáng (27), yêu hơn châu báu. Kinh nhàn đọc dấu (28), trọng lòng rồi (29), trọng nữa (30) hoàng câm (31).
25) Dễ: Ở đây chữ “dễ” có người phiên âm là “dịch” nhưng nghĩ rằng không phải chữ dịch, vì kinh Dịch không phải là kinh Phật. Hơn nữa, "Sách dễ xem chơi" và "Kinh nhàn đọc dấu" đối nhau rất chỉnh.
26) Yêu: Thích, chuộng (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị).
27) Tính sáng: Phật tính Sáng rõ, do từ ngữ Phật giáo “Minh tâm kiến tính”, tức “gột bỏ tất cả mọi tạp niệm trần tục, thông suốt triệt để hiểu rõ vì tạp niệm mà đánh mất bản tính (Phật tính), làm sáng lòng mới rõ được Phật tính”. 明心見性,佛教語。謂屏棄世俗一切雜念,徹悟因雜念而迷失了的本性(即佛性) 
28) Dấu: Yêu thích, yêu mến (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị).
29) Lòng rồi: Tâm rỗi, tâm thanh thản, tâm thảnh thơi.
30) Nữa: Hơn (Từ Điển từ Việt cổ).
31) Hoàng câm: Hoàng kim, vàng (kim loại).

(Nguyễn Hữu Vinh đọc nôm và chú thích)

Viết lại bằng tiếng Việt hiện đại

Sống đời vui đạo
Phần 1

Mình ngồi thành thị, dùng thói sơn lâm Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính, nửa ngày thiền tự tại thân tâm (*)
Nguồn tham ái ngừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý Tiếng thị phi lặng, tha hồ nghe yến hót oanh ngâm
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý Biết đào hồng, rành liễu lục, thiên hạ có mấy kẻ tri âm ?
Trăng sáng trời xanh, soi mọi chỗ sông thiền lai láng Liễu mềm hoa tốt, ngất chúng sinh trời tuệ xum xuê
[Thiên hạ] Lo thay xương, ước bay cao, thuốc thần mới uống Muốn trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm
[Nhưng ta] Sách, dễ xem chơi, yêu tính sáng, yêu hơn châu báu Kinh, nhàn thích đọc, trọng lòng thiền, trọng hơn cả vàng

(Trần Đình Hoành viết lại)

Chú thích

(*) Chữ “rồi” trong Cư Trần Lạc Đạo được dùng nhiều lần. Xem ý tứ thì thấy “rồi”, một từ Nôm với nghĩa là (1) “rỗi” và (2) “xong”, “hết”, đã được dùng để thay thế chữ “thiền” trong tiếng Hán–“thiền” là “hết mọi sự”, “rỗng lặng”. Rõ ràng là đến ngày nay, từ “rồi” không còn được dùng, và từ “thiền” đã thắng thế.


Dịch sang tiếng Anh

Living in the world, joyful in the Way
Part 1

Sitting in the city, living the mountain way All movements settling down, True Nature is at rest; meditating half a day, body and mind are tranquil
Greed sources stop, no more desire for precious jewelry Quarreling voices quiet down, I freely listen to the birds
Enjoying scenic waters, retreating into the mountain, those many people like Knowing the pink peach, understanding the green willow, how many people share such interest?
The bright moon on the blue sky shines on all places, the Zen river overflows The willows are soft, the flowers grow well, on all beings the wisdom sun thrives
[Others] Wanting to change their bones, wishing to fly high, they drink their elixir Craving to be eternal, longing to come to heaven, they pestle their panacea still
[But me] Books, easy to read, I love the light, more than precious gems Sutras, restful to read, I value Zen mind, more than even gold

(Trần Nhân Tông, Founder of Trúc Lâm Zen School Trần Đình Hoành translated)









Comments

Popular posts from this blog

Cư trần lạc đạo phú — Hội thứ mười

Cư trần lạc đạo phú — Hội thứ tư